Đầu tư và phân loại Quỹ tương hỗ

Quỹ tương hỗ thường được phân loại theo các khoản đầu tư chính của họ, như được mô tả trong bản cáo bạch và mục tiêu đầu tư. Bốn loại chính của quỹ là các quỹ thị trường tiền tệ, quỹ trái phiếu hay thu nhập cố định, quỹ cổ phiếu hoặc cổ phần và quỹ kết hợp. Trong các loại này, các quỹ có thể được phân tiểu loại bởi mục tiêu đầu tư, phương pháp tiếp cận đầu tư hoặc tập trung cụ thể. SEC yêu cầu tên quỹ tương hỗ không thể không phù hợp với các khoản đầu tư của quỹ. Ví dụ, "Quỹ trái phiếu miễn thuế New Jersey ABC" nói chung sẽ phải đầu tư, trong trường hợp bình thường, ít nhất 80% tài sản của mình trong trái phiếu được miễn thuế thu nhập liên bang, thuế tối thiểu thay thế và các thuế trong bang New Jersey.[15]

Các quỹ trái phiếu, cổ phiếu và kết hợp có thể được phân loại như các quỹ chỉ số (được quản lý một cách thụ động) hoặc các quỹ được quản lý tích cực.

Quỹ thị trường tiền tệ

Các quỹ thị trường tiền tệ đầu tư vào các công cụ thị trường tiền tệ, là các chứng khoán thu nhập cố định với một thời gian rất ngắn để trưởng thành và chất lượng tín dụng cao.Các nhà đầu tư thường sử dụng các quỹ thị trường tiền tệ như một sự thay thế cho các tài khoản tiết kiệm ngân hàng, mặc dù các quỹ thị trường tiền tệ không được chính phủ bảo hiểm, không giống như tài khoản tiết kiệm ngân hàng.

Các quỹ thị trường tiền tệ cố gắng duy trì 1,00 USD giá trị tài sản ròng trên mỗi cổ phần, có nghĩa là các nhà đầu tư kiếm được thu nhập tiền lãi từ quỹ nhưng không có sự gia tăng vốn hoặc lỗ vốn. Nếu một quỹ không duy trì 1.00 USD mỗi cổ phần vì các chứng khoán đã giảm trong giá trị, nó được gọi là "vỡ buck". Chỉ có hai quỹ thị trường tiền tệ đã từng bị vỡ buck: Community Banker's U.S. Government Money Market Fund vào năm 1994 và Reserve Primary Fund trong năm 2008.

Vào cuối năm 2011, các quỹ thị trường tiền tệ chiếm 23% tài sản của quỹ mở.[13]

Quỹ trái phiếu

Bài chi tiết: Quỹ trái phiếu

Các quỹ trái phiếu đầu tư vào các chứng khoán thu nhập cố định hoặc chứng khoán nợ. Các quỹ trái phiếu có thể được phân tiểu loại theo loại hình cụ thể của trái phiếu nắm giữ (chẳng hạn như lợi suất cao hoặc trái phiếu rác, trái phiếu công ty cấp đầu tư, trái phiếu chính phủ, trái phiếu đô thị) hoặc bằng sự trưởng thành của trái phiếu được tổ chức (ngắn, trung hoặc dài hạn). Các quỹ trái phiếu có thể đầu tư chủ yếu vào chứng khoán Mỹ (trong nước hoặc các quỹ Mỹ), trong cả chứng khoán Mỹ và nước ngoài (các quỹ toàn cầu hay quỹ thế giới), hoặc chủ yếu là chứng khoán nước ngoài (các quỹ quốc tế).

Vào cuối năm 2011, các quỹ trái phiếu chiếm 25% tài sản của quỹ mở.[13]

Quỹ cổ phiếu

Bài chi tiết: Quỹ cổ phiếu

Các quỹ cổ phiếu đầu tư vào các cổ phiếu phổ thông mà đại diện cho cổ phần sở hữu (hoặc vốn cổ phần) trong các công ty. Các quỹ cổ phiếu được đầu tư chủ yếu vào chứng khoán Mỹ (trong nước hoặc quỹ Mỹ), trong cả chứng khoán Mỹ và nước ngoài (các quỹ toàn cầu hay thế giới), hoặc chủ yếu là chứng khoán nước ngoài (các quỹ quốc tế). Họ có thể tập trung vào một ngành công nghiệp hoặc lĩnh vực cụ thể.

Một quỹ cổ phiếu có thể được phân tiểu loại theo hai kích thước: (1) vốn hóa thị trường và (2) phong cách đầu tư (tức là, tăng trưởng vs. pha trộn/cốt lõi vs. giá trị). Hai kích thước thường được hiển thị trong một mạng lưới được biết đến như một "hộp phong cách".

Vốn hóa thị trường ("VHTT") cho biết quy mô của các công ty mà một quỹ đầu tư trong đó, dựa trên giá trị cổ phiếu của công ty. Vốn hóa thị trường của mỗi công ty bằng số lượng cổ phiếu lưu hành nhân với giá thị trường của cổ phiếu. Vốn hóa thị trường thường được chia thành các loại như sau:

  • VHTT cực nhỏ
  • VHTT nhỏ
  • VHTT trung bình
  • VHTT lớn

Trong khi các định nghĩa cụ thể của từng loại khác nhau với các điều kiện thị trường, cổ phiếu vốn hóa lớn thường có vốn hóa thị trường ít nhất là 10 tỷ USD, cổ phiếu nhỏ có vốn hóa thị trường thấp hơn 2 tỷ USD, và cổ phiếu vốn hóa cực nhỏ có vốn hóa thị trường dưới 300 triệu USD. Các quỹ cũng được phân loại trong các loại này dựa trên vốn hóa thị trường của các cổ phiếu mà nó nắm giữ.

Các quỹ cổ phiếu cũng được phân tiểu loại theo phong cách đầu tư của họ: tăng trưởng, giá trị, pha trộn (hoặc cốt lõi). Các quỹ tăng trưởng tìm cách đầu tư vào cổ phiếu của các công ty đang phát triển nhanh chóng. Các quỹ giá trị tìm cách đầu tư vào cổ phiếu xuất hiện giá rẻ. Các quỹ pha trộn sẽ không thiên về tăng trưởng cũng như giá trị.

Vào cuối năm 2011, các quỹ cổ phiếu chiếm 46% tài sản trong tất cả các quỹ tương hỗ của Mỹ.[13]

Quỹ kết hợp

Quỹ kết hợp (quỹ lai) đầu tư vào cả trái phiếu và cổ phiếu, hoặc vào chứng khoán chuyển đổi. Quỹ cân bằng, quỹ phân bổ tài sản, quỹ ngày mục tiêu hoặc quỹ rủi ro mục tiêu và các quỹ vòng đời hay quỹ lối sống là tất cả các loại quỹ lai.

Các quỹ lai có thể được cấu trúc như quỹ của các quỹ, có nghĩa là họ đầu tư bằng cách mua cổ phần trong các quỹ tương hỗ khác đầu tư vào chứng khoán. Hầu hết quỹ của các quỹ đầu tư vào các quỹ liên kết (có nghĩa là các quỹ tương hỗ được quản lý bởi chính các nhà tài trợ quỹ), mặc dù một số đầu tư vào các quỹ không liên kết (có nghĩa là được quản lý bởi những nhà tài trợ quỹ khác) hoặc trong một sự kết hợp của cả hai.

Vào cuối năm 2011, quỹ lai chiếm 7% tài sản trong tất cả các quỹ tương hỗ của Mỹ.[13]

Quỹ chỉ số (được quản lý thụ động) vs. Quỹ được quản lý chủ động

Một quỹ chỉ số hay quỹ quản lý thụ động tìm cách để phù hợp với hoạt động của một chỉ số thị trường, chẳng hạn như chỉ số S&P 500, trong khi một quỹ quản lý chủ động tìm cách làm tốt hơn một chỉ số có liên quan thông qua các lựa chọn chứng khoán cao.